Lý Thừa Nghiệp không phải sinh ra để làm thơ, nhưng, từ ngày biết sống với thơ, dường như thi sĩ lúc nào cũng thao thức, cũng ôm ấp, cũng tâm tình với thơ như chính nổi niềm thiết tha của tâm hồn mình.
Chính ngọn lửa tâm hồn hài hoà này, phát ra sức nóng, luôn là chất keo quyện chặt, giữ gìn trái tim sâu lắng, tràn đầy hoài cảm, dạt dào thân ái, nhưng không thiếu phần sáng tạo, để, từ đó, nhà thơ tự tạo ra thứ âm thanh réo rắc, tuôn chảy vào cõi lòng bất tận của mình và tha nhân. Chính cõi thơ không cùng này, đã tạo thành niềm tin son sắt, niềm hạnh phúc vô biên hoà lẫn nỗi niềm hy vọng mang cõi thơ thoát tục góp một bàn tay vào chốn trần gian. Rồi cũng ngọn lửa nhiệm mầu này, lại là một thực tại phát sáng, tạo thành ánh sáng nhiệm mầu, thiêng liêng cao cả, để soi rọi cuộc đời, hầu mang nguồn vui đạo thâm trầm cho thi hữu khắp nơi, và cũng ước mong dâng hiến trái tim ngọt ngào yêu thương, tâm hồn trong sáng bao la đến người thưởng thức!
Một màu nắng lung linh
Cỏ xanh cùng trời đất
Lấp lánh những ơn lành.
Buổi trưa ngồi niệm Phật
Man mác cuộc hồng trần
Kiếp người như điện phất
Cát bụi nào bâng khuâng.
Nửa đêm ngồi niệm Phật
Thơ bay sáng trên đồi
Câu Kinh như khúc hát
Phiền não hề! mây trôi
Thường niệm, thường niệm Phật
Bao la những sen vàng
Hồ tâm dường như ngọc
Biển sáng màu thanh quang.
Mùa Xuân ngồi niệm Phật
Bờ xưa dậy hương trầm
Hằng sa đời phiêu bạt
Trong lòng Mẹ Quán Âm.
( Bài Niệm Phật)
Ở những bài thơ khác, trong Thực Tại Nhiệm Mầu, người nghe còn thấy cả những câu thơ như những dòng suối mát ngọt ngào tuôn chảy bất tận, bình dị hài hoà như mặt đất nuôi lớn tất cả mầm non, nhưng lại không thiếu sự rung động, độ mỹ cảm dạt dào của tâm hồn thi sĩ:
Tặng em đó những cỏ hoa Bồ tát
Trang kinh nào ăm ắp cả hư không
Chuông khua vang, rưng rức bụi hồng
Ai sinh diệt và ai còn phiêu bạt… (Tạc Tượng)
Ta đưa người vô đạo
Tâm tướng hề! như không
Qua hết mùa dông bảo
Sen nở trắng trên đồng… (Đưa Người)
Trăm lạy này gởi Mẹ
Nghìn lạy này gởi Cha
Con bây giờ như bụi
Lênh đênh chốn Ta bà (Khúc Mùa Đông)
Nếu đứng ở phía trước, người đọc có thể thấy được mọi chi tiết rõ ràng, cụ thể đến tận phía sau; nếu nhìn từ góc độ thượng tầng, người đọc có thể thấu thị được đến tận cùng điểm cuối của hạ tầng; nếu đứng từ trung tâm, người đọc có thể thông suốt và cảm nhận cả mọi thành tố của ý nghĩa và ngôn từ. Vì lẽ tự nhiên này, thơ đạo của Lý Thừa Nghiệp không những vừa cho ta những điều đã từng có trong kho tàng thi ca Việt nam, mà thi sĩ còn cung hiến cho người thưởng thức thơ những điều chưa từng có từ trước, để có thể trở thành những áng thơ bất hủ, những tiếng chuông tâm thức chân thật mầu nhiệm, những âm thanh êm dịu lạ lùng, giống như tiếng chuông từ thuở hồng hoang tịch tĩnh:
Chừng như từ thuở hồng hoang
Tiếng chuông vô tận còn vang lưng trời
Lắng nghe bặt cả ngôn lời
Mới hay tâm tánh đổi dời tử sinh. (Tiếng Chuông)
Vì thế, thơ của Lý Thừa Nghiệp sinh ra, lớn lên giữa biển đời trầm luân dâu bể, nên thường sống động, gần gủi kiếp nhân sinh, luôn hoà quang đồng trần, mà chưa một lần bị thế trần làm nhiễm ô mê hoặc, hoặc biến đi bản thể bất sinh. Đây cũng là điểm sáng tạo đặt biệt của nhà thơ.
Trong quá trình sáng tạo, thi nhân vẫn luôn sử dụng chữ nghĩa trần gian, nhưng lại là thứ chữ nghĩa được hàm dưỡng từ nội tâm, được vun phân tưới nước kỷ lưỡng, để có một sức sống đẹp trong mỗi lời thơ. Những lời lẽ trong thơ lại ngắn gọn, xúc tích, sắc xảo, chứa đầy chất sống tinh tế nhiệm mầu. Vì vậy, những năm qua, nhà thơ Lý Thừa Nghiệp đã thành công trong việc truyền đạt những tình cảm đậm đà, những tha thiết trinh thành đối với quê hương, đối với con người, đối với những giá trị nhân bản và đối với dòng thơ Thiền của đạo Phật!